Ngành tôm xuất khẩu của Bangladesh lao đao vì nợ nần, dịch bệnh và giống kém chất lượng - VINAGRI News

Breaking

Home Top Ad

Exclusively Agriculture News

Monday, October 20, 2025

Ngành tôm xuất khẩu của Bangladesh lao đao vì nợ nần, dịch bệnh và giống kém chất lượng

VINAGRI News - Từng là ngành xuất khẩu lớn thứ hai của Bangladesh, ngành tôm nay đang bên bờ sụp đổ do dịch bệnh, giống tôm yếu, nhập lậu từ Ấn Độ, và tác động của biến đổi khí hậu. Hàng triệu nông dân và chủ trại giống ven biển đang lâm vào khủng hoảng nợ nần.


Tôm giống từ các trại sản xuất giống địa phương rẻ hơn nhưng chỉ sống sót tối đa được 60 ngày, trong khi chúng cần khoảng 100 ngày đđạt kích thước trưởng thành. Ảnh: Mokammel Shuvo


Tóm lược:

> Tôm từng là ngành xuất khẩu lớn thứ hai của Bangladesh, nhưng nay suy yếu nghiêm trọng.

Dịch bệnh, chất lượng tôm giống kém và nhập lậu từ Ấn Độ khiến nông dân phá sản hàng loạt.

Hơn 90% người nuôi tôm ở nhiều khu vực đang mắc nợ.

Số lượng trại giống ở Cox’s Bazar giảm mạnh, chi phí sản xuất vượt giá bán.

Biến đổi khí hậu, nhiệt độ nước cao và lệnh cấm khai thác mùa vụ làm trầm trọng thêm khủng hoảng.

Xuất khẩu tôm năm 2024 - 2025 đạt 296 triệu USD, tăng nhẹ 19% nhưng chủ yếu do giá tăng.

Các chuyên gia cảnh báo khủng hoảng mang tính cơ cấu, kêu gọi chính phủ hỗ trợ giống, thuốc và chính sách để cứu ngành.


Từng là ngành xuất khẩu lớn thứ hai của Bangladesh, ngành tôm nước này hiện đang chao đảo. Ngành từng được xem là trụ cột của nền kinh tế ven biển, mang lại sinh kế cho hàng triệu người. Thế nhưng, dịch bệnh, chất lượng tôm giống thấp, nhập khẩu trái phép và biến đổi khí hậu cực đoan đã đẩy toàn bộ lĩnh vực vào khủng hoảng, đe dọa sinh kế của cả người nuôi và chủ trại giống.


Lấy ví dụ trường hợp của ông Jagadish Roy ở làng Foria thuộc huyện Paikgachha, tỉnh Khulna, người đã hơn 20 năm nuôi tôm sú (tôm bagda, hay black tiger shrimp). Tuy nhiên, ông cho biết chưa bao giờ cảm thấy yên tâm với nghề này.


“Giống tôm mà chúng tôi mua từ các trại giống địa phương rẻ hơn nhưng chất lượng rất kém,” ông nói. “Chúng chỉ sống được tối đa 60 ngày, trong khi tôm cần khoảng 100 ngày mới đạt kích cỡ thương phẩm. Ngoài ra, chúng tôi còn đối mặt với tình trạng khan hiếm tôm giống khi lệnh cấm đánh bắt xa bờ được áp dụng, do khi đó không thể thu được tôm mẹ.”


Ông cho biết thêm, tôm giống kém chất lượng thường mang theo mầm bệnh, buộc nhiều người nuôi phải nhập lậu tôm giống từ Ấn Đđể bù đắp nguồn thiếu hụt. Tuy nhiên, những lứa giống nhập lậu này cũng thường chết sớm, gây thiệt hại toàn bộ ao nuôi và khiến nông dân chìm sâu trong nợ nần.


“Khoảng 90% người nuôi tôm trong khu vực chúng tôi đều đang mắc nợ,” Roy nói. Đất ở đây không phù hợp với cây trồng nào khác ngoài nuôi tôm, nên chúng tôi không thể bỏ nghề. Khi một người phá sản, người khác sẽ tiếp quản, nhưng ai cũng mang nợ.”


Ông cho biết virus thường tấn công khi tôm lột vỏ ở khoảng 30 - 35 ngày tuổi, khiến toàn bộ công sức và vốn đầu tư nhiều tháng bị xóa sạch chỉ trong vài ngày.


Tình cảnh của ông Jagadish phản ánh thực trạng chung khắp vùng duyên hải tây nam Bangladesh. Các trại sản xuất tôm giống ở Cox’s Bazar cung cấp con giống cho các trang trại ở Khulna, Satkhira và Bagerhat. Độ mặn của vùng ven biển này lý tưởng cho việc ươm giống, nhưng ngành đây cũng đang teo tóp: từ khoảng 60 trại giống trước kia, nay chỉ còn 25 - 30 trại hoạt động.



Ông Zakir Ullah, Giám đốc điều hành một trại giống ở Cox’s Bazar, chia sẻ: “Nếu tôi bỏ nghề bây giờ, tôi sẽ phải gánh khoản nợ khoảng 5 crore taka. Chúng tôi bán 1.000 con tôm giống với giá trung bình 250 taka, trong khi chi phí sản xuất khoảng 300 taka. Chúng tôi chỉ tiếp tục hoạt động để tránh phá sản.”


Nhiều chủ trại giống kỳ cựu đã rút khỏi ngành, nhường lại cho người thuê. Ông Harunur Rashid, Giám đốc Belie Hatchery tại Kolatoli, cho biết sự ra đi của các nhà điều hành có kinh nghiệm trùng hợp với thời điểm nhu cầu sụt giảm. “Nhiều nông dân, vì nợ nần chồng chất, đã bỏ nghề,” ông nói. “Xuất khẩu cũng giảm, kéo giá bán xuống thấp hơn nữa.”


Lệnh cấm đánh bắt xa bờ, kéo dài ttháng 6 đến tháng 7 hằng năm, làm trầm trọng thêm khó khăn. Trong thời gian này, các tàu cá không được phép thu thập tôm mẹ, khiến việc sản xuất tôm giống trong nước bị đình trệ.


Ông Salehin Rahman Mohian, thành viên Ban chấp hành Hiệp hội Trại giống Tôm Bangladesh và Giám đốc Niribili Hatchery, cho biết nhiều chủ trại phải ngồi không trong mùa cao điểm. “Một số trại nhập ấu trùng tôm (larvae) từ các trại Ấn Độ,” ông nói thêm. “Nhưng những lô hàng nhập lậu này thường có chất lượng rất kém, gây thiệt hại nặng nề cho người nuôi.”


Ông SM Babor, Thư ký văn phòng của Hiệp hội Trại giống Tôm Bangladesh, cho biết Cox’s Bazar sản xuất khoảng 700 - 800 crore (7 - 8 tỷ) tôm giống mỗi năm. “Trước đây có 58 trại giống hoạt động ở đây, nay chỉ còn 25 - 30,” ông nói, đồng thời cho biết có khoảng 25 - 30 trại mới xuất hiện ở Satkhira, sử dụng nước biển vận chuyển bằng tàu đánh cá.



Công tác quản lý trại giống còn bị ảnh hưởng bởi quy trình chọn tôm bố mẹ yếu kém và hiện tượng gian lận.


Ông Nazmul Huda, Cán bộ Thủy sản huyện Cox’s Bazar, mô tả tình hình là “rất phức tạp”. Nhiệt độ nước ao tại các vùng ven biển tây nam tăng lên 37°C - 44°C ttháng 4 đến tháng 6, khiến môi trường không còn phù hợp cho tôm. Bùn tích tụ làm ao nông hơn, trong khi dịch bệnh xảy ra thường xuyên. “Một số trại nhập ấu trùng tôm giả, nuôi dưỡng chúng rồi bán ra thị trường dưới danh nghĩa tôm giống nội địa,” ông nói.


Trong thời gian cấm khai thác, các cơ quan thủy sản giám sát chặt chẽ các trại giống ở Cox’s Bazar và Satkhira để ngăn chặn việc ươm nuôi ấu trùng trái phép. “Nếu phát hiện trại nào chứa ấu trùng nhập lậu, chúng tôi sẽ tiêu hủy ngay lập tức,” Huda nói.


Tuy nhiên, vẫn có khiếu nại rằng việc ươm nuôi lén lút vẫn diễn ra, do một số thương lái muốn đáp ứng nhu cầu cao về tôm giống trong thời gian cấm.


Trên khắp các huyện ven biển, khoảng 3 triệu người trực tiếp tham gia vào hoạt động nuôi, ươm và chế biến tôm, và thêm khoảng 2 triệu người khác phụ thuộc gián tiếp vào ngành. Tuy nhiên, sản lượng đã sụt giảm mạnh trong thập kỷ qua: từ 120.000 - 133.000 tấn (2010 - 2014) xuống chỉ còn 42.000 tấn vào năm 2020.


Kim ngạch xuất khẩu tôm, từng đạt đỉnh 550 triệu USD trong năm tài khóa 2014, đã sụt giảm nghiêm trọng trước khi hồi phục nhẹ 19% trong năm tài khóa 2024 - 2025, đạt 296 triệu USD.


Trong tháng 7/2025, xuất khẩu tăng 47% so với cùng kỳ năm trước, lên 31 triệu USD, nhưng theo các nhà trong ngành, sự tăng trưởng này chủ yếu do giá bán cao và đồng USD mạnh, chứ không phải do sản lượng tăng thực chất.


Theo ông Mohian, thách thức của ngành không chỉ mang tính tài chính mà còn là cấu trúc.


“Vì những sai lầm chính sách lặp đi lặp lại, ngành tôm đang sụp đổ,” ông nói. “Bangladesh đã mất thị phần tôm thẻ chân trắng (vannamei) toàn cầu vì chậm thông qua chính sách. Nay, người mua châu Âu bắt đầu quan tâm trở lại đến tôm sú (bagda) nhờ hương vđặc trưng, nên chính phủ cần vào cuộc đđảm bảo nguồn giống, thuốc và thức ăn chất lượng, nhằm tăng sản lượng và kim ngạch xuất khẩu.”


NPK/ Vinagri News (The Daily Star)

No comments:

Post a Comment